Thông tin liên hệ
Để xem chi phí tham gia đấu giá
Thông tin người có tài sản:
Thông tin đơn vị tổ chức đấu giá:
Thông tin việc đấu giá:
Cổng thông tin điện tử quốc gia về đấu giá tài sản
STT | Tên tài sản | Số lượng | Nơi có tài sản | Giá khởi điểm | Tiền đặt trước | Ghi chú |
---|---|---|---|---|---|---|
1 |
Quyền sử dụng đất thuộc thửa đất số 449A, tờ bản đồ số 1, theo GCN số B 989721 mang tên bà Nguyễn Thị Kim Phượng. Diện tích theo GCN: 80m². MĐSD: Nhà ở. Thời hạn sử dụng: Lâu dài. Diện tích đo đạc thực tế phù hợp với diện tích đã được cấp theo GCN quyền sử dụng đất. Quyền sử dụng đất thuộc thửa đất số 94, tờ bản đồ số 31 theo GCN số BS 493161 mang tên bà Nguyễn Thị Kim Phượng. Diện tích theo GCN: 43,2m². MĐSD: Đất trồng cây lâu năm. Thời hạn sử dụng: Đến năm 2041. Diện tích đo đạc thực tế phù hợp với diện tích đã được cấp theo GCN quyền sử dụng đất. Tài sản gắn liền trên đất là công trình xây dựng liền khối, không thể tách rời được xây dựng trên thửa đất số 449A, tờ bản đồ số 1 và thửa đất số 94, tờ bản đồ số 31 của bà Nguyễn Thị Kim Phượng gồm có: 01 nhà ở riêng lẻ 01 tầng. 01 giếng đào đường kính 1,2m, sâu khoảng 30m và một số tài sản khác. |
Tổ 7, phường Yên Thế, Thành phố Pleiku, Gia Lai |
3.409.754.800 Đ |
500.000.000 Đ |
Tiện ích dành cho bạn:
Tài khoản này của bạn có thể sử dụng chung ở tất cả hệ thống của chúng tôi, bao gồm DauThau.info, DauThau.Net, DauGia.Net, BaoGia.Net
"Kinh nghiệm là bước đầu của khôn ngoan. "
Schopenhauer
Sự kiện trong nước: Nhà vǎn Nguyễn Khoa Vǎn, bút danh Hải Triều, sinh ngày 1-1-1908 tại An Cựu, ngoại thành Huế. Ông là đảng viên lớp đầu của Đảng cộng sản Đông Dương. Nǎm 1931 ông bị bắt và bị đưa về Huế kết án 9 nǎm khổ sai và 8 nǎm quản thúc. Tháng 7-1932 ông được trả tự do. Ra tù, ông bí mật hoạt động Cách mạng. Đồng thời, ông viết bài trên các báo chí hợp pháp để truyền bá chủ nghĩa Mác và quan điểm của Đảng về nghệ thuật vị nhân sinh. Ngòi bút lý luận sắc bén của ông từng áp đảo đối phương trong những cuộc tranh biện, bút chiến về vǎn học. Tháng 8-1940 ông lại bị bắt đi an trí tại Phong Điền tỉnh Thừa Thiên. Đến tháng 3-1945 ông mới được thả. Sau đó ông tham gia tổng khởi nghĩa ở Huế. Sau khi giành chính quyền, ông là Giám đốc Sở tuyên truyền Trung Bộ. Trong thời gian kháng chiến chống Pháp ông làm Giám đốc Sở tuyên truyền Liên khu IV, Uỷ viên ban chấp hành Chi hội vǎn nghệ Liên khu IV. Các tác phẩm chính của ông là: "Duy tâm hay duy vật" (chuyên luận, xuất bản vǎn 1935). "Vǎn sĩ và xã hội" (1937), "Về vǎn học nghệ thuật" (tuyển tập - 1965). Ông mất ngày 6-8-1954 tại Hà Lũng tỉnh Thanh Hoá, sau cơn bệnh kéo dài, thọ 46 tuổi.