Thông tin liên hệ
Để xem chi phí tham gia đấu giá
Thông tin người có tài sản:
Thông tin đơn vị tổ chức đấu giá:
Thông tin việc đấu giá:
Cổng thông tin điện tử quốc gia về đấu giá tài sản
STT | Tên tài sản | Số lượng | Nơi có tài sản | Giá khởi điểm | Tiền đặt trước | Ghi chú |
---|---|---|---|---|---|---|
1 |
Quyền sử dụng đất thuộc thửa đất số: 23, tờ bản đồ số: 269; diện tích: 3.827 m2; Hình thức sử dụng: Sử dụng riêng; Mục đích sử dụng: đất trồng cây hàng năm khác; thời hạn sử dụng đến ngày 01/7/2064; Nguồn gốc sử dụng: Công nhận QSDĐ như giao đất không thu tiền sử dụng đất toạ lạc tại: Buôn Gung Dang, xã Krông Nô, huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk. Đất được UBND huyện Lắk cấp giấy chứng nhận số CA 899605, số vào sổ cấp giấy chứng nhận: CH 00303 cấp ngày 17/4/2018 cho ông Phạm Văn Toàn. Quyền sử dụng đất được đo đạc thực tế có diện tích là: 3.610,4 m2 (giảm 216,6 m2 so với Giấy chứng nhận QSDĐ). |
1 |
Buôn Gung Dang, xã Krông Nô, Huyện Lắk, Đắk Lắk |
991.054.800 Đ |
198.210.960 Đ |
Tiện ích dành cho bạn:
Tài khoản này của bạn có thể sử dụng chung ở tất cả hệ thống của chúng tôi, bao gồm DauThau.info, DauThau.Net, DauGia.Net, BaoGia.Net
"Cuộc đời như một chuyến xe mà chúng ta là người lái, mỗi khi qua một bến, sẽ có người lên và người xuống. Những người lên xe cùng chúng ta lúc khởi hành phần nhiều giữa đường sẽ rời đi, còn người cùng chúng ta đến cuối hành trình thì rất ít. Thậm chí chẳng có một ai. "
Thuần Gian Khuynh Thành
Sự kiện trong nước: Nhà vǎn Nguyễn Khoa Vǎn, bút danh Hải Triều, sinh ngày 1-1-1908 tại An Cựu, ngoại thành Huế. Ông là đảng viên lớp đầu của Đảng cộng sản Đông Dương. Nǎm 1931 ông bị bắt và bị đưa về Huế kết án 9 nǎm khổ sai và 8 nǎm quản thúc. Tháng 7-1932 ông được trả tự do. Ra tù, ông bí mật hoạt động Cách mạng. Đồng thời, ông viết bài trên các báo chí hợp pháp để truyền bá chủ nghĩa Mác và quan điểm của Đảng về nghệ thuật vị nhân sinh. Ngòi bút lý luận sắc bén của ông từng áp đảo đối phương trong những cuộc tranh biện, bút chiến về vǎn học. Tháng 8-1940 ông lại bị bắt đi an trí tại Phong Điền tỉnh Thừa Thiên. Đến tháng 3-1945 ông mới được thả. Sau đó ông tham gia tổng khởi nghĩa ở Huế. Sau khi giành chính quyền, ông là Giám đốc Sở tuyên truyền Trung Bộ. Trong thời gian kháng chiến chống Pháp ông làm Giám đốc Sở tuyên truyền Liên khu IV, Uỷ viên ban chấp hành Chi hội vǎn nghệ Liên khu IV. Các tác phẩm chính của ông là: "Duy tâm hay duy vật" (chuyên luận, xuất bản vǎn 1935). "Vǎn sĩ và xã hội" (1937), "Về vǎn học nghệ thuật" (tuyển tập - 1965). Ông mất ngày 6-8-1954 tại Hà Lũng tỉnh Thanh Hoá, sau cơn bệnh kéo dài, thọ 46 tuổi.