Thông tin liên hệ
Để xem chi phí tham gia đấu giá
Thông tin người có tài sản:
Thông tin đơn vị tổ chức đấu giá:
Thông tin việc đấu giá:
Cổng thông tin điện tử quốc gia về đấu giá tài sản
STT | Tên tài sản | Số lượng | Nơi có tài sản | Giá khởi điểm | Tiền đặt trước | Ghi chú |
---|---|---|---|---|---|---|
1 |
QSDĐ & TSGLVĐ tại thửa đất số 50,51,52, TBĐ số 146, địa chỉ: Thôn Kon Prôh Tu Ria, xã Đăk Hring, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum. Theo GCN số CĐ 496417 do UBND huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum cấp ngày 16/9/2016 mang tên bà Y Vai. Diện tích: 2.403,5 m2 (trong đó thửa đất số 50 là 501,7 m2, thửa đất số 51 là 691,8 m2, thửa đất số 52 là 1210 m2), hình thức SD riêng, mục đích SD: đất trồng cây lâu năm, thời hạn SD đến năm 2052. Cây lâu năm (đã chứng nhận quyền sở hữu): cây cà phê. Thực tế kê biên: Tài sản gắn liền với đất: 372 cây cà phê trồng năm 2009 (đã chứng nhận quyền sở hữu) và một số cây trồng khác. |
Thôn Kon Prôh Tu Ria, xã Đăk Hring, Huyện Đắk Hà, Quảng Ngãi |
162.690.565 Đ |
25.000.000 Đ |
Tiện ích dành cho bạn:
Tài khoản này của bạn có thể sử dụng chung ở tất cả hệ thống của chúng tôi, bao gồm DauThau.info, DauThau.Net, DauGia.Net, BaoGia.Net
"Hối tiếc trải nghiệm của bản thân là ngăn chặn sự phát triển của chính mình. Phủ nhận trải nghiệm của bản thân là thì thầm lời nói dối trên môi cuộc đời của chính mình. Điều đó không gì khác chính là phủ nhận tâm hồn mình. "
Oscar Wilde
Sự kiện trong nước: Nhà vǎn Nguyễn Khoa Vǎn, bút danh Hải Triều, sinh ngày 1-1-1908 tại An Cựu, ngoại thành Huế. Ông là đảng viên lớp đầu của Đảng cộng sản Đông Dương. Nǎm 1931 ông bị bắt và bị đưa về Huế kết án 9 nǎm khổ sai và 8 nǎm quản thúc. Tháng 7-1932 ông được trả tự do. Ra tù, ông bí mật hoạt động Cách mạng. Đồng thời, ông viết bài trên các báo chí hợp pháp để truyền bá chủ nghĩa Mác và quan điểm của Đảng về nghệ thuật vị nhân sinh. Ngòi bút lý luận sắc bén của ông từng áp đảo đối phương trong những cuộc tranh biện, bút chiến về vǎn học. Tháng 8-1940 ông lại bị bắt đi an trí tại Phong Điền tỉnh Thừa Thiên. Đến tháng 3-1945 ông mới được thả. Sau đó ông tham gia tổng khởi nghĩa ở Huế. Sau khi giành chính quyền, ông là Giám đốc Sở tuyên truyền Trung Bộ. Trong thời gian kháng chiến chống Pháp ông làm Giám đốc Sở tuyên truyền Liên khu IV, Uỷ viên ban chấp hành Chi hội vǎn nghệ Liên khu IV. Các tác phẩm chính của ông là: "Duy tâm hay duy vật" (chuyên luận, xuất bản vǎn 1935). "Vǎn sĩ và xã hội" (1937), "Về vǎn học nghệ thuật" (tuyển tập - 1965). Ông mất ngày 6-8-1954 tại Hà Lũng tỉnh Thanh Hoá, sau cơn bệnh kéo dài, thọ 46 tuổi.